Lăng Thiệu Trị
Lăng Thiệu Trị nằm ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách kinh thành Huế chừng 8km. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng tây bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn.
Ngày 11/02/1848, lăng bắt đầu được khởi công xây dựng và chỉ 10 tháng sau đã hoàn thành. Tổng thể lăng gồm có hai khu vực: lăng và tẩm.
Khu lăng: nằm ở bên phải, trước có hồ Nhuận Trạch thông với hồ Ðiện. Sau hồ Nhuận Trạch là Nghi Môn bằng đồng dẫn vào Bái Đình (sân chầu) rộng lớn. Hai hàng tượng đá ở hai bên tả, hữu của sân là tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng nửa đầu thế kỷ 19 ở Huế.
Bi Đình và Lầu Ðức Hinh tọa lạc trên quả đồi cong dạng mai rùa. Bi Đình còn gọi là Phương Đình có tấm bia khắc 2.500 chữ của vua Tự Ðức ca ngợi công đức của vua cha.
Qua hồ Ngưng Thuý có 3 cây cầu là Chánh Trung (giữa), Ðông Hoà (Phải), Tây Ðình (trái) là đến tam cấp vào Bửu Thành, chỗ đặt thi hài vua Thiệu Trị.
Khu tẩm (điện thờ): xây dựng riêng, cách Lầu Ðức Hinh 100m về phía trái. Qua Nghi Môn bằng đá cẩm thạch, bước lên 3 bậc tam cấp qua Hồng Trạch Môn là đến điện Bửu Ðức. Ðiện Bửu Ðức là nơi thờ bài vị của vua và bà Từ Dũ (vợ vua). Trong chánh điện trên những cỗ diêm ở bộ mái và ở cửa Hồng Trạch có khắc trên 450 ô chữ chạm khắc các bài thơ có giá trị văn học và giáo dục. Các công trình phụ thuộc như Tả Hữu Phối điện (trước), Tả và Hữu tùng viện (sau) quây quần xung quanh điện Bửu Ðức càng tăng thêm vẻ tôn nghiêm của chính điện.
Lăng Thiệu Trị còn đó với vẻ đẹp giản đơn, gần gũi, dựa lưng vào chân núi Thuận Ðạo, gần trước mặt lăng là cả một vùng đất bằng phẳng cây cối xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương tới tận cầu Lim.
Ngày 11/02/1848, lăng bắt đầu được khởi công xây dựng và chỉ 10 tháng sau đã hoàn thành. Tổng thể lăng gồm có hai khu vực: lăng và tẩm.
Khu lăng: nằm ở bên phải, trước có hồ Nhuận Trạch thông với hồ Ðiện. Sau hồ Nhuận Trạch là Nghi Môn bằng đồng dẫn vào Bái Đình (sân chầu) rộng lớn. Hai hàng tượng đá ở hai bên tả, hữu của sân là tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng nửa đầu thế kỷ 19 ở Huế.
Bi Đình và Lầu Ðức Hinh tọa lạc trên quả đồi cong dạng mai rùa. Bi Đình còn gọi là Phương Đình có tấm bia khắc 2.500 chữ của vua Tự Ðức ca ngợi công đức của vua cha.
Qua hồ Ngưng Thuý có 3 cây cầu là Chánh Trung (giữa), Ðông Hoà (Phải), Tây Ðình (trái) là đến tam cấp vào Bửu Thành, chỗ đặt thi hài vua Thiệu Trị.
Khu tẩm (điện thờ): xây dựng riêng, cách Lầu Ðức Hinh 100m về phía trái. Qua Nghi Môn bằng đá cẩm thạch, bước lên 3 bậc tam cấp qua Hồng Trạch Môn là đến điện Bửu Ðức. Ðiện Bửu Ðức là nơi thờ bài vị của vua và bà Từ Dũ (vợ vua). Trong chánh điện trên những cỗ diêm ở bộ mái và ở cửa Hồng Trạch có khắc trên 450 ô chữ chạm khắc các bài thơ có giá trị văn học và giáo dục. Các công trình phụ thuộc như Tả Hữu Phối điện (trước), Tả và Hữu tùng viện (sau) quây quần xung quanh điện Bửu Ðức càng tăng thêm vẻ tôn nghiêm của chính điện.
Lăng Thiệu Trị còn đó với vẻ đẹp giản đơn, gần gũi, dựa lưng vào chân núi Thuận Ðạo, gần trước mặt lăng là cả một vùng đất bằng phẳng cây cối xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương tới tận cầu Lim.